Mục lục
Lịch sự phát triển trí tuệ nhân tạo AI?
Lịch sử
Khái niệm về những sinh vật nhân tạo thông minh có từ thời Hy Lạp cổ đại với sự phát triển của Aristotle về khái niệm tam đoạn luận và suy luận suy diễn, tuy nhiên AI như chúng ta hiểu bây giờ chưa đầy một thế kỷ.
Năm 1943, Warren McCullough và Walter Pitts xuất bản bài báo, ‘Tính toán logic của các ý tưởng nội tại trong hoạt động thần kinh’. Bài báo này đề xuất mô hình toán học đầu tiên để xây dựng một mạng lưới thần kinh. Ý tưởng này đã được mở rộng vào năm 1949 với việc xuất bản cuốn sách của Donald Webb, ‘Tổ chức hành vi: Một lý thuyết tâm lý thần kinh’. Webb đề xuất rằng các con đường thần kinh được tạo ra từ kinh nghiệm, trở nên mạnh mẽ hơn khi chúng được sử dụng thường xuyên hơn.
Những ý tưởng này đã được đưa vào lĩnh vực máy móc vào năm 1950 khi Alan Turing xuất bản cuốn ‘Máy tính và Trí thông minh’, đặt ra cái mà ngày nay được gọi là Phép thử Turing để xác định xem một cỗ máy có thực sự thông minh hay không. Cùng năm này, sinh viên chưa tốt nghiệp Harvard Marvin Minsky và Dean Edmonds xây dựng SNARC, máy tính mạng thần kinh đầu tiên và Claude Shannon xuất bản bài báo, ‘Lập trình máy tính để chơi cờ’. Tác giả khoa học viễn tưởng, Isaac Asimov cũng đã xuất bản ‘Ba định luật về người máy’ vào năm 1950, đặt ra một kế hoạch chi tiết cơ bản cho sự tương tác của AI với loài người.
Năm 1952, Arthur Samuel đã tạo ra một chương trình máy tính tự học để chơi bản nháp và vào năm 1954, sáu mươi câu tiếng Nga đã được dịch sang tiếng Anh bởi thí nghiệm dịch máy Georgetown-IBM.
Thuật ngữ trí tuệ nhân tạo được đặt ra vào năm 1956 tại ‘Dự án nghiên cứu mùa hè Dartmouth về trí tuệ nhân tạo’. Hội nghị này, do John McCarthy dẫn đầu, đã xác định phạm vi và mục tiêu của AI và cũng trong năm này, Allen Newell và Herbert Simon đã trình diễn Logic Theorist, chương trình suy luận đầu tiên.
John McCarthy tiếp tục công việc của mình về AI vào năm 1958 bằng cách phát triển ngôn ngữ lập trình AI Lisp và xuất bản bài báo ‘Programs with Common Sense’, đề xuất một hệ thống AI hoàn chỉnh giả định có thể học hỏi kinh nghiệm hiệu quả như con người. Điều này được tiếp tục xây dựng vào năm 1959 khi Allen Newell, Herbert Simon và JC Shaw phát triển ‘Bộ giải quyết vấn đề chung’, một chương trình được thiết kế để bắt chước cách giải quyết vấn đề của con người. Năm 1959 cũng chứng kiến Herbert Gelernter phát triển chương trình Chứng minh Định lý Hình học, Arthur Samuel đặt ra thuật ngữ ‘học máy’ khi còn ở IBM và John McCarthy và Marvin Minsky sáng lập Dự án Trí tuệ Nhân tạo MIT.
John McCarthy tiếp tục thành lập phòng thí nghiệm AI của Đại học Stanford vào năm 1963, tuy nhiên, AI đã gặp trở ngại vào năm 1966 khi chính phủ Hoa Kỳ hủy bỏ mọi khoản tài trợ cho các dự án MT. Những thất bại tiếp tục vào năm 1973, khi chính phủ Anh cũng cắt giảm tài trợ cho các dự án AI do ‘Báo cáo Lighthill’. Những cắt giảm này đã dẫn đến sự thiếu tiến bộ trong AI cho đến năm 1980 khi Digital Equipment Corporations phát triển R1 (còn gọi là XCON), hệ thống chuyên gia thương mại thành công đầu tiên.
Nhật Bản tham gia lĩnh vực AI vào năm 1982 với dự án Hệ thống máy tính thế hệ thứ năm, dẫn đến việc chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu tài trợ trở lại với việc khởi động Sáng kiến máy tính chiến lược. Đến năm 1985, sự phát triển của AI một lần nữa tăng lên khi hơn một tỷ đô la được đầu tư vào ngành và các công ty chuyên biệt mọc lên để xây dựng các hệ thống dựa trên ngôn ngữ lập trình Lisp.
Tuy nhiên, thị trường Lisp sụp đổ vào năm 1987 khi các lựa chọn thay thế rẻ hơn xuất hiện và công nghệ điện toán được cải thiện. Đến năm 1993, nhiều sáng kiến của những năm 1980 đã bị hủy bỏ, mặc dù quân đội Hoa Kỳ đã triển khai thành công DART, một công cụ lập kế hoạch và lập kế hoạch hậu cần tự động, trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, và Deep Blue của IBM đã đánh bại nhà vô địch cờ vua nổi tiếng Gary Kasparov vào năm 1997.
Thiên niên kỷ mới đã chứng kiến một số tiến bộ trong công nghệ AI, bao gồm cả ô tô tự lái, STANLEY đã giành chiến thắng trong Thử thách lớn của DARPA vào năm 2005 và quân đội Hoa Kỳ đầu tư vào các rô-bốt tự động như ‘Big Dog’ của Boston Dynamic và ‘PackBot’ của iRobot cùng năm. Google đã tạo ra những bước đột phá trong nhận dạng giọng nói cho ứng dụng iPhone của họ vào năm 2008 và năm 2011, Watson của IBM đã đánh bại đối thủ trong chương trình đố vui Jeopardy!
Mạng nơ-ron đã phát triển hơn nữa vào năm 2012 khi mạng nơ-ron nhận dạng thành công một con mèo mà không cần cho biết đó là gì và vào năm 2014, ô tô tự lái của Google là thiết bị đầu tiên vượt qua bài kiểm tra lái xe cấp tiểu bang ở Hoa Kỳ. Năm 2016 chứng kiến một bước tiến khác của AI khi AlphaGo của Google DeepMind đánh bại kỳ thủ cờ vây vô địch thế giới Lee Sedol.
AI bắt đầu từ khi nào?
Như đã trình bày ở trên, AI đã chứng kiến một số lượng lớn sự phát triển trong nhiều thập kỷ kể từ năm 1950, nhưng trí tuệ nhân tạo hiện đại được chấp nhận rộng rãi ngay từ đầu khi Alan Turing hỏi liệu máy móc có thể suy nghĩ trong bài báo của ông, ‘Máy tính và Trí thông minh’. Điều này dẫn đến Thử nghiệm Turing, thiết lập các mục tiêu cơ bản của AI.
Ai đã phát minh ra AI?
Trong khi nhiều người đã giúp phát triển AI, xây dựng dựa trên nghiên cứu và đột phá của nhau, người ta thường tin rằng nhà toán học người Anh và ‘Cha đẻ của Khoa học Máy tính’, Alan Turing đã đưa ra những khái niệm đầu tiên về trí tuệ nhân tạo.
Xem thêm:
Các loại máy tính công nghiệp tại kho cảng
9 quy tắc vàng giúp bạn lựa chọn hệ thống quản lý kho hàng WMS phù hợp
Ứng dụng thị giác máy để kiểm soát giao thông
Trí tuệ nhân tạo AI – Nền tảng công nghệ trong phòng chống dịch bệnh